Xử trí với chiêu trò “tín dụng đen”
04/09/2020 16:24 324
“Tín dụng đen” hiện đang len lỏi, hoạt động tinh vi, bất chấp pháp luật là nổi ám ảnh của không biết bao nhiêu người, hậu quả nó mang lại là khôn lường. Đặc biệt thời gian gần đây, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều người dân mất việc làm nên nhu cầu có tiền để trang trải cuộc sống tăng cao và đây là cơ hội cho “tín dụng đen” hoành hoành gây mất an ninh, trật tự.
Hiện chưa có khái niệm chính thức nào về hoạt động “tín dụng đen”. Tuy nhiên thực tế cho thấy, “tín dụng đen” là hình thức cho vay, đi vay hoặc huy động vốn với lãi suất vượt quá mức lãi suất pháp luật quy định, được thực hiện bởi các cá nhân, nhóm người hoặc tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính, thường gắn với các hành vi đòi nợ, chiếm đoạt tài sản trái pháp luật.
Ảnh minh họa (nguồn internet)
Một tình huống xảy ra: Một người đã dùng số điện thoại đăng ký ứng dụng vay tiền trên điện thoại để vay tiền tín dụng bên Công ty A. Quá trình trả nợ bị trễ hạn 02 tháng thì nhân viên Công ty A nhiều lần gọi điện yêu cầu phải trả tiền đúng hạn và liên tục nhắn tin uy hiếp sẽ đăng thông tin cá nhân của người vay lên mạng xã hội hoặc gửi hình ảnh nhạy cảm cho bạn bè để gây sức ép để trả nợ.
Vậy, pháp luật xử lý với trường hợp này như thế nào?
- Tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, theo các quy định nêu trên thì bên vay tiền có nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn.
- Tại Khoản 1 Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định như sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. Như vậy, theo các quy định nêu trên, cá nhân có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín. Việc công ty A đăng thông tin của người vay lên mạng xã hội để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín được xem là xâm phạm đến quyền được bảo vệ đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân người đó.
- Điều 11 BLDS năm 2015 quy định: “Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
5. Buộc bồi thường thiệt hại.
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
7. Yêu cầu khác theo quy định của luật”.
Mặt khác, tại các khoản: 2, 3, 4, 5 Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, trong trường hợp Công ty A đăng thông tin của người vay lên mạng xã hội để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài các quyền tự bảo vệ như: yêu cầu Công ty A bác bỏ thông tin xâm phạm, yêu cầu Công ty A xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại…, thì người vay còn có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình, yêu cầu Tóa án buộc Công ty A xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại (nếu có)./.
Tin liên quan
- Bộ Công an thực hiện dân chủ trong các cơ sở y tế CAND
- Hành vi tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép vào Việt Nam có thể bị phạt tới 15 năm tù
- HẾT THỜI TIN NHẮN, THƯ ĐIỆN TỬ VÀ CUỘC GỌI RÁC
- Triển khai cấp căn cước công dân có gắn chíp điện tử
- Mua, bán, sử dụng quân trang, trang bị, công cụ hỗ trợ Công an nhân dân có vi phạm pháp luật?
- Thông báo mới về việc "tự động gia hạn" cho người nước ngoài
- Gia hạn tạm trú cho người nước ngoài chưa thể xuất cảnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19
- Quy định về quản lý, sử dụng các hệ thống kỹ thuật xử lý ô nhiễm môi trường trong Công an nhân dân
- Tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh trong Công an tỉnh
- Trách nhiệm của lực lượng Công an trong xây dựng cơ sở dữ liệu về thi hành án hình sự
Thống kê truy cập
Số lượt truy cập: 1886
Tổng số lượt xem: 8164508